06 août 2014

TƯỚNG W. JARUZELSKI (1923 – 2014)

H. B.

 CÓ MỘT W. JARUZELSKI
ĐỂ TRÁNH MỘT UKRAINA VÀ MỘT ARAB SPRING
BÊN BỜ BIỂN ĐÔNG


Tướng W. Jaruzelski xuất thân từ một gia đình quý tộc điền chủ ngoan đạo và có truyền thống yêu nước ở Kurów, đông-nam Ba Lan ngày nay. Ông nội của ông là Wojciech Jaruzelski tham gia cuộc khởi nghĩa 1863-1864 chống lại Nga hoàng nên bị đày 8 năm ở Syberia. Cha ông là Władysław Jaruzelski tham gia cuộc chiến tranh Ba Lan – Liên Xô 1919-1921 và 20 năm sau, 1941, cũng bị đày ở Krasnojarsk, rồi chết năm 1942. Wojciech Jaruzelski sinh ngày 06.07.1923 và được đặt tên theo ông nội. Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, gia đình ông bị đưa đến vùng núi Altai rất sâu trong lãnh thổ Liên Xô. Tại đây, năm 19 tuổi W. Jaruzelski làm nghề đốn cây rừng và là lao động chính nuôi mẹ và em gái. Thời gian đó ông mắc chứng lòa tuyết nên thị giác bị ảnh hưởng, sau này thường phải mang kính mầu. Năm 1960 ông cưới bà Barbara, ông bà có một con gái đặt tên là Monika.


W. Jaruzelski là một chính khách và chỉ huy quân sự Ba Lan, một nhà hoạt động cộng sản. Ông tham gia chiến tranh thế giới lần thứ hai từ tháng 05.1943 do Hồng quân Liên Xô điều động bổ sung tại Bijsk – Altai, tốt nghiệp trường hạ sỹ quan và được phong quân hàm thượng sỹ. Khi Đức quốc xã đầu hàng tháng 05.1945, ông là trung úy chỉ huy đơn vị trinh sát của một trung đoàn ở Nauen, 38 km về phía tây Berlin. Giữa tháng 06 ông mới vào Berlin và ngày 01.07.1945 cùng đơn vị vượt sông Nysa về Ba Lan.
Tháng 07.1956 W. Jaruzelski được phong quân hàm thiếu tướng. Không có tài liệu nào ghi lại quan điểm của ông trong sự kiện Poznań 1956, nhưng ông là sỹ quan cấp tướng duy nhất của Ba Lan ủng hộ việc nguyên soái Konstantyn Rokossowski[1] tiếp tục ở lại trong biên chế Quân đội Nhân dân Ba Lan. Nguyên soái Rokossowski là người đã chủ trương sử dụng quân đội đàn áp công nhân làm 57 người chết.
Trong những năm 1967-1968, là thành viên trong ban lãnh đạo cao nhất của ngành quốc phòng W. Jaruzelski tích cực tổ chức cuộc thanh trừng Do Thái trong quân đội, đỉnh cao là sự kiện tháng 03.1968. Rất nhiều người trong “đội quân Do Thái thứ năm” đã phải di cư khỏi Ba Lan. Ông nói việc này do Tổng cục Chính trị thực hiện, còn ông là Tổng tham mưu trưởng và ở cơ quan ông không có sỹ quan nào bị sa thải. Tuy nhiên, ông coi đây là một “trang đen tối, bẩn thỉu trong lịch sử cận đại” và ông không né tránh những đánh giá tiêu cực về việc lẽ ra ông có thể có ảnh hưởng nhất định đến tình hình thực tế lúc đó.
Các đơn vị Quân đội Nhân dân Ba Lan dưới quyền W. Jaruzelski đã cùng lực lượng vũ trang Hiệp ước Warszawa dập tắt Mùa xuân Praha trong chiến dịch Sông Đanuyp năm 1968. Tháng 02.1969 tại Bộ Tổng tham mưu ông tổ chức hội thảo khoa học về cuộc can thiệp vào Tiệp Khắc. Năm đó ông được tặng huân chương cao nhất của nước Cộng hòa Nhân dân Ba Lan là Huân chương Lao động. Ngày 09.05.2005 ông được mời sang Moskva dự lễ kỷ niệm kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ hai và nhận Huân chương 60 năm Chiến thắng do tổng thống V. Putin trao tặng. Khi đó tổng thống Czech là Václav Klaus đã phản đối việc tặng huân chương cho ông.
W. Jaruzelski giám sát cuộc đàn áp công nhân trong sự kiện Gdańsk 12.1970. Ông nói, khi đó ông mới là ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị nên không chịu trách nhiệm về việc hạ lệnh bắn thẳng vào công nhân biểu tình. Tuy nhiên, ông có mặt trong cuộc họp ngày 15.12.1970 và quyết định đàn áp dẫn đến đổ máu là quyết định tập thể của Bộ Chính trị. Có tài liệu nói sau cuộc đàn áp công nhân, ông được đưa lên ghế ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị. Là bộ trưởng quốc phòng, ông đã ra lệnh cho quân đội phối hợp với công an tiến hành chiến dịch bình định các cuộc biểu tình của công nhân vùng duyên hải Baltic làm 39 người chết. Một năm sau, ngày 11.12.1971 ông trở thành ủy viên chính thức Bộ Chính trị. Trong những năm 1970´s lãnh đạo cao nhất của đảng và nhà nước đã có kế hoạch phong hàm nguyên soái Ba Lan cho ông, nhưng vì nhiều lý do, trong đó có cả đề nghị cá nhân của ông nên kế hoạch này không được thực hiện.
Khi làn sóng đình công bùng nổ tháng 08.1980, chính quyền đã cân nhắc khả năng thiết quân luật nhằm dập tắt phong trào dân chủ đang manh nha. Đến nay vẫn không rõ lý do tại sao thiết quân luật không bắt đầu từ khi đó, song có thể do Bộ Chính trị lo sợ cuộc đụng đầu trực tiếp sẽ làm cho tình hình vượt quá tầm kiểm soát, trong khi ngày 28.08.1980 Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô thời L. Brezhnev ra lệnh động viên 4 sư đoàn ở các quân khu miền tây mà không thông báo cho lãnh đạo Ba Lan; các sư đoàn này dự định tiến sang Ba Lan vào đầu tháng 09 nếu đình công toàn quốc kéo dài, và nếu gặp kháng cự sẽ có tăng viện. Chính quyền Ba Lan đã thỏa hiệp với phong trào đình công bằng việc ký các thỏa thuận tháng tám dẫn đến việc Công đoàn Độc lập Tự quản “Đoàn Kết” ra đời và sau đó được đăng ký chính thức ngày 10.11.1980. Ngay trong tháng 08.1980, Ủy ban Bảo vệ Đất nước và Bộ Tổng tham mưu Quân đội Ba Lan đã nghiên cứu khả năng thiết quân luật[2] (stan wojenny). Hai ngày sau khi “Đoàn Kết” được đăng ký, trong cuộc họp ngày 12.11 của Ủy ban Bảo vệ Đất nước, W. Jaruzelski đã thông báo về hồ sơ pháp lý cần thiết cho một cuộc thiết quân luật, bộ nội vụ đã chuẩn bị kế hoạch bắt giữ 12,9 nghìn người trong danh sách đối lập, phong tỏa giao thông và truyền thông.
Ngày 01.12.1980 Liên Xô thông báo kế hoạch đưa quân vào Ba Lan từ 08.12 trong khuôn khổ cuộc tập trận Sojuz 80. Theo CIA thì đầu tháng 12.1980 sẽ có 18 sư đoàn thuộc Hiệp ước Warszawa tiến vào Ba Lan gồm 15 sư đoàn Liên Xô, 2 sư đoàn Tiệp Khắc và 1 sư đoàn CHDC Đức[3]. Tổng thống Mỹ R. Reagan đã cân nhắc khả năng đưa quân Mỹ vào châu Âu nhưng các cố vấn, trong đó có Zbigniew Brzeziński – một người gốc Ba Lan – cho rằng trên chiến trường châu Âu, quân Mỹ không mạnh bằng quân Liên Xô. Trong tình hình đó, tại hội nghị cấp cao Hiệp ước Warszawa họp ở Moskva ngày 05.12, tướng W. Jaruzelski trình bày chủ trương chính quyền Ba Lan tự hành động để xóa bỏ “Đoàn Kết” và phe đối lập ngay khi xuất hiện những dấu hiệu đầu tiên vượt quá giới hạn, không cần hỗ trợ từ bên ngoài.
Tháng 02 và 03.1981, các đơn vị quân đội và công an phối hợp chuẩn bị các phương án đối phó khi tình hình xấu đi. Cuối tháng 03 khi các đoàn viên công đoàn bị đánh trong một cuộc biểu tình ở Bydgoszcz, Đoàn Kết tuyên bố tổng đình công ngày 31.03.1981. Trong cùng thời gian này Hiệp ước Warszawa đang tổ chức cuộc tập trận Sojusz 81 ở Ba Lan. Tài liệu giải mật của tình báo Mỹ ngày 03.04.1981 cho biết lãnh đạo Liên Xô đã nghiêng về phương án can thiệp vì cho rằng những người cộng sản Ba Lan không còn khả năng giữ chính quyền; do vậy cuối tháng 03 đầu tháng 04 có 12-20 sư đoàn Liên Xô đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Ngày 27.03 Đoàn Kết tổ chức đình công cảnh cáo. Cũng trong ngày này nguyên soái Liên Xô Viktor Kulikov đến Warszawa tỏ ý không hài lòng về việc Ba Lan chuẩn bị chưa tốt cho thiết quân luật. Ngày 30.03 chủ tịch Đoàn Kết L. Wałęsa và thủ tướng M. Rakowski gặp nhau và nhân nhượng. Đại diện Đoàn Kết phát biểu trên TV tuyên bố bãi bỏ tổng đình công. Cuộc khủng hoảng tạm thời được tháo ngòi.
Tháng 07.1981, Moskva tự ý đưa vào căn cứ Borne Sulinowo[4] trên lãnh thổ Ba Lan thêm 600 xe tăng, nâng cơ số xe tăng Liên Xô ở đây lên trên 900. Một tháng sau, nguyên soái V. Kulikov yêu cầu đưa cố vấn quân sự Liên Xô vào Ba Lan từ cấp sư đoàn đến Bộ Tổng tham mưu, nhưng lãnh đạo Ba Lan không đồng ý.
Cuối tháng 08.1981, đại tá cục trưởng tình báo Bộ Nội vụ Ba Lan Tadeusz Kwiatkowski sang Moskva làm việc với KGB về việc in 25.000 bản thông báo thiết quân luật và chuyển bằng máy bay IL-18 sang Warszawa đầu tháng 09, bảo quản trong trụ sở Bộ Nội vụ.
Đầu tháng 09.1981, Quân đội Liên Xô tổ chức cuộc tập trận “Tập kích 81” được mô tả là lớn nhất kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Những người tham dự cho rằng cuộc tập trận này là cuộc tổng diễn tập trước cuộc xâm lăng thực sự vào Ba Lan. Rất có thể đây chỉ là những động thái phô trương cảnh cáo vì khi đó Liên Xô đang phải đối phó với nhiều khó khăn trong cuộc can thiệp vào Afghanistan.
Lúc 0:00 ngày 13.12.1981 các đơn vị cảnh sát cơ động với 10.000 nhân viên tham gia chiến dịch “Jodła” bắt giữ những người bị coi là đe dọa an ninh quốc gia trên toàn quốc, mở đầu 1 năm 7 tháng 9 ngày thiết quân luật ở nước Cộng hòa Nhân dân Ba Lan. Ngày hôm đó 70.000 bộ đội, 30.000 công an, 1.750 xe tăng, 1.400 xe bọc thép, 500 xe chiến đấu của bộ binh, 9.000 xe ôtô cùng một số phi đội trực thăng và máy bay vận tải đã được huy động. 25% lực lượng thiết quân luật tập trung ở thủ đô Warszawa và vùng ngoại ô. Quyền lực tối cao thuộc về Hội đồng Quân sự Cứu nước do đại tướng W. Jaruzelski đứng đầu. Trong cuộc stan wojenny này, chủ yếu là thời gian đầu, có 56 người chết vì bị lực lượng công an và an ninh đàn áp trong các cuộc đình công và biểu tình. Cuộc thiết quân luật đình chỉ một phần ngày 31.12.1982 và đình chỉ toàn bộ ngày 22.07.1983.
Hai năm sau thiết quân luật, ngày 24.09.1985 tại New York, W. Jaruzelski gặp David Rockefeller với sự có mặt của Z. Brzeziński để trao đổi về việc Rockefeller đầu tư vào nông nghiệp Ba Lan và hoạt động của Quỹ Rockefeller ở Ba Lan.
W. Jaruzelski là người định hướng và chỉ đạo tổ chức Hội nghị Bàn tròn 1989, mặc dù ông không dự các phiên họp của hội nghị. Theo kết quả đạt được tại hội nghị này, tháng 06.1989 nước Ba Lan cộng sản tổ chức cuộc bầu cử hạ nghị viện “tự do một phần”, theo đó, ít nhất 65% đại biểu (299) là quota dành cho liên minh cầm quyền của đảng cộng sản, những người không đảng phái chỉ được ứng cử vào 35% đại biểu (161); thượng nghị viện là cơ quan mới lập thì bầu cử hoàn toàn tự do. Trong cuộc bầu cử này, ông không ứng cử. Kết quả bầu cử là thất bại nặng nề của những người cộng sản vì công đoàn Đoàn Kết giành được tất cả 161 ghế đại biểu Hạ nghị viện là quota dành cho họ và 99/100 đại biểu Thượng nghị viện với tỷ lệ phiếu bầu rất cao.
Hội nghị Bàn tròn quy định lập chức danh Tổng thống nước Cộng hòa Nhân dân Ba Lan thay chức danh Chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đương nhiệm W. Jaruzelski không ứng cử vào chức vụ Tổng thống nước Cộng hòa Nhân dân Ba Lan, tại hội nghị trung ương đảng ông giới thiệu bộ trưởng nội vụ ứng cử. Tờ báo có uy tín nhất của nước Ba Lan mới là Gazeta Wyborcza đăng bài dưới tiêu đề “Tổng thống của các vị, thủ tướng của chúng tôi” công khai ủng hộ người của đảng cộng sản giữ chức tổng thống. Ngày 18.07, sau khi được công đoàn Đoàn Kết ủng hộ, ông mới đồng ý ứng cử. Ngày hôm sau, 19.07.1989 ông được bầu làm Tổng thống nước Cộng hòa Nhân dân Ba Lan với 270 trên 537 đại biểu tham gia bỏ phiếu ủng hộ - số phiếu cần thiết là 269. Từ ngày 31.12.1989, sau khi Hiến pháp mới có hiệu lực, ông trở thành Tổng thống nước Cộng hòa Ba Lan. Ngày 19.09.1990 ông gửi cho chủ tịch Hạ nghị viện dự luật rút ngắn nhiệm kỳ tổng thống của ông để mở đường cho cuộc bầu cử tổng thống theo chế độ phổ thông. Trong cuộc bầu cử phổ thông đầu tiên kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai nhân dân Ba Lan đã chọn chủ tịch công đoàn Đoàn Kết Lech Wałęsa làm Tổng thống nước Cộng hòa Ba Lan. Nhiệm kỳ tổng thống của tướng W. Jaruzelski kết thúc ngày 22.12.1990.
Ngày 25.05.2014, tướng W. Jaruzelski qua đời ở tuổi 91. Dù trong phần lớn thời gian còn sống ông luôn khẳng định ông là người vô thần, nhưng trước khi nhắm mắt ông đồng ý làm lễ theo nghi thức thiên chúa giáo[5]. Thi thể ông được hỏa táng. Theo đề nghị của Văn phòng Tổng thống, gia đình đồng ý tổ chức lễ tang ông theo nghi thức nhà nước. Thống đốc thành phố thủ đô Warszawa đồng ý cấp đất miễn phí cho việc chôn cất di hài ông ở nghĩa trang quân đội Powązki. Đay là vinh dự nhà nước Ba Lan không cộng sản dành cho ông.
#
Lý lịch trích ngang của W. Jaruzelski khẳng định ông là nhà hoạt động cộng sản cao cấp: tháng 06.1947 gia nhập Đảng Công nhân Ba Lan và từ 1948 là Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan (1964-1989), ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan (1971-1989), Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan (1981-1989), đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Nhân dân Ba Lan các khóa III, IV, V, VI, VII, VIII, IX, chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Nhân dân Ba Lan (1981-1985), chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa Nhân dân Ba Lan (1985-1989), sau đó là tổng thống nước Cộng hòa Nhân dân Ba Lan (1989) và tổng thống nước Cộng hòa Ba Lan (1989-1990), đại tướng Quân đội Nhân dân Ba Lan, chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Ba Lan (1960-1965), tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Ba Lan (1965-1968), bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1968-1983), chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Đất nước – chỉ huy trưởng các lực lượng vũ trang, tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang trong trường hợp có chiến tranh, đồng sáng lập Phong trào Yêu nước Phục hưng Dân tộc, chủ tịch Hội đồng Quân sự Cứu nước nắm quyền lãnh đạo trên thực tế ở Ba Lan thời kỳ thiết quân luật (1981-1983).
Đã trải qua những biến cố ngặt nghèo có đổ máu của đất nước và dân tộc Ba Lan trong các năm 1956, 1968, 1970 và chứng kiến những biến cố đau thương của các nước và dân tộc Hunggari 1956, Tiệp Khắc 1968 nên khi đứng trước biến cố nguy hiểm của đất nước và dân tộc trong những năm 1980-1981, W. Jaruzelski quyết tâm tiếp tục truyền thống yêu nước từ ngàn đời, đặt lợi ích của dân tộc lên trên các lợi ích khác, kể cả lý tưởng cộng sản và danh dự cá nhân[6].
  • Tháng 12.1991 ông và 25 người liên quan đến việc thực hiện thiết quân luật bị kiện tại Tòa án Quốc gia (Trybunał Stanu) về trách nhiệm trước hiến pháp và trách nhiệm hình sự, nhưng đến tháng 10.1996 Quốc hội ra nghị quyết đình chỉ điều tra.
  • Tháng 04.2007, trên cơ sở các tài liệu của Hiệp ước Warszawa do bộ trưởng quốc phòng Radosław Sikorski (hiện nay, 2014, là bộ trưởng ngoại giao) cung cấp, ông và 8 người khác bị buộc tội “chủ trương thực hiện thiết quân luật”. Là người đứng đầu Hội đồng Quân sự Cứu nước, ông bị buộc tội “tội ác cộng sản lãnh đạo liên minh tội phạm vũ trang thực hiện các tội ác khác” và tội “xúi giục các ủy viên Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa Nhân dân Ba Lan vượt quá thẩm quyền phê chuẩn những sắc lệnh về thiết quân luật trái với Hiến pháp lúc đó”. Tháng 03.2008 tòa bắt đầu xử nhưng chưa tuyên đọc hồ sơ vụ án và tháng 08.2008 tòa yêu cầu công tố bổ sung tài liệu làm chứng, trong đó có tài liệu thẩm vấn các nhân chứng Margaret Thatcher i Michail Gorbachov
  • Ông cũng bị buộc tội trong vụ “lãnh đạo” tàn sát công nhân vùng Duyên hải Baltic tháng 12.1970.
  • Ngày 11.10.1994, khi đang giới thiệu cuốn sách mới xuất bản của ông tại một hiệu sách trên quảng trường Legionów ở Wrocław, một trong số những người bị trấn áp trong thiết quân luật là nhà hoạt động của phong trào nông dân Stanisław Helski đã lấy đá đập thẳng vào mặt ông.
  • Có những người đặt câu hỏi ông phục vụ Moskva hay Washington và Bonn?
  • Từ năm 1993, vào dịp kỷ niệm thiết quân luật, trước nhà riêng của gia đình ông ở quận Mokotów, hằng năm những người chống thiết quân luật đều tổ chức biểu tình. Ngày 13.12.2003 lần đầu tiên những người ủng hộ ông cũng tổ chức biểu tình trước nhà ông để cám ơn ông đã quyết định thiết quân luật; cũng là lần đầu tiên ông ra với những người biểu tình, cảm ơn họ đã ủng hộ ông. Ông nhấn mạnh “Nếu không có ngày 13.12.1981 thì không có ngày 13.12 ở Kopenhagen và Bruxelles[7].
#
Mặc dù còn nhiều ý kiến trái ngược nhau về vai trò của ông nhưng dư luận chung ghi nhận ông là một trong ba người Ba Lan có vai trò quyết định dẫn đến những thay đổi ở Ba Lan thông qua bầu cử từng bước tự do, một cách hòa bình. Ba người đó là: 1. Bí thứ thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan Wojciech Jaruzelski, 2. Chủ tịch Công đoàn Độc lập Tự quản “Đoàn Kết” Lech Wałęsa và 3. Giáo hoàng John Paul II – tiếng Ba Lan viết là Jan Paweł II. May mắn cho dân tộc Ba Lan và đất nước Ba Lan là trong những năm 1980-1989 đó có hai người đứng đầu ở hai bên chiến tuyến đã biết nhìn thẳng vào mắt nhau để cùng nhận ra giá trị vĩnh hằng của đồng bào và đất nước, đặt lợi ích dân tộc lên trên tất cả các lợi ích khác. Người thứ ba dù đã là một “công dân toàn cầu” vẫn ngày đêm trăn trở, nhắc lại lời Thiên Chúa ghi trong Kinh thánh “Các con đừng sợ!” đúng thời điểm cần nhắc để mấy chục triệu người vừa quyết tâm vừa bình tĩnh gặp nhau ngay bên chiến tuyến. Chiếc bàn tròn là biểu tượng của tinh thần hợp tác vừa có nguyên tắc vừa nhân nhượng nhau để tìm con đường đưa dân tộc Ba Lan thoát khỏi trong gang tấc nguy cơ một cuộc can thiệp chắc chắn đổ nhiều máu để cùng các dân tộc khác ở Đông Âu chuyển mình một cách hòa bình sang giai đoạn phát triển hợp với xu thế chung.
Chính hội nghị bàn tròn do W. Jaruzelski định hướng và chỉ đạo tổ chức là cột mốc đánh dấu những thay đổi tưởng như không bao giờ có ở Ba Lan, Đông Âu và Liên Xô. Quanh chiếc bàn tròn mọi người đều bình đẳng, tôn trọng và được tôn trọng, lắng nghe và được lắng nghe. Quanh chiếc bàn tròn mọi người tự tin đối thoại. Đối thoại để tránh xung đột và tránh đổ máu. Đối thoại để từ bỏ con đường độc tài, để bước trên con đường dân chủ. Đối thoại bên bàn tròn là biểu hiện của sự giác ngộ nhân bản.
Không ai nghi ngờ năng lực tiếp thu kiến thức và hiểu biết chủ nghĩa Marx-Lenin, trình độ giác ngộ lý tưởng cộng sản và sự kiên định lập trường giai cấp công nhân của W. Jaruzelski. Cũng không ai nghi ngờ sự thành tâm của ông khi chịu làm lễ thánh để được về nước Chúa[8]. Những người thuộc thế hệ U70 trên thế giới ngày nay, nhất là ở các nước Á Đông, mấy ai có hiểu biết, giác ngộ lý tưởng và kiên định lập trường như ông?
Nhiều tài liệu xác nhận W. Jaruzelski là một sỹ quan được đào tạo rất tốt, có tri thức và kỷ luật (doskonale wyszkolony, inteligentny i zdyscyplinowany), hoàn thành tốt nhiệm vụ (wykonał szybko i dokładnie wydawane rozkazy), dũng cảm và quyết đoán (odważny i zdecydowany), xả thân (oddany, osobiście wysuwał się w najbardziej niebezpieczne punkty), gương mẫu (wzorowy, dawał przykład żołnierzom)... Ông không có học vị tiến sỹ và học hàm giáo sư, nhưng mấy ai được như ông?
Gia đình Jaruzelski – ông và cháu, cha và con – có truyền thống yêu nước sâu sắc. Âu cũng là lẽ thường, vì có người bình thường nào lại không yêu đất nước và dân tộc mình?
Tạo hóa đặt đất nước và dân tộc Ba Lan cạnh những gã khổng lồ tham lam và xấu bụng. Ba Lan phải “ăn đời ở kiếp” với họ. Ba Lan có W. Jaruzelski nên trong thời điểm nguy nan người Ba Lan đã hòa giải được với nhau. Cũng may là chỉ trong những năm đầu thập niên 1980´s đó các ông chủ điện Kremli lần lượt đi theo K. Marx và V. Lenin: L. Brezhnev (10.10.1982), Y. Andropov (09.02.1984), K. Chernenko (10.03.1985). Ông chủ kế vị là M. Gorbachov lại là người thấy rõ “mô hình xô-viết không tôn trọng con người, áp bức con người về tinh thần và chính trị”[9].
Chúng tôi là một đất nước và một dân tộc Á Đông ở cách Ba Lan cả chục nghìn cây số đường chim bay. Tạo hóa cũng đặt đất nước và dân tộc chúng tôi cạnh một gã khổng lồ, gã cũng tham lam và xấu bụng, và chúng tôi cũng phải “ăn đời ở kiếp với người ta”. Có một vị đại tướng hơn ông 12 tuổi – vậy là hai ông cùng tuổi Hợi, cũng có dư luận – dư luận xã hội xuất phát từ tình cảm kính trọng, đề nghị phong hàm nguyên soái cho ông. Trong mấy chục năm cuối đời ông là nạn nhân của thói “khôn nhà dại chợ” của chính chúng tôi. Năm 2002, khi đất nước đã trải qua 27 năm thống nhất mà lòng người còn ly tán, vị đại tướng đó dặn chúng tôi “Hòa giải dân tộc là công cuộc trọng đại và cấp thiết”. Nay đã gần 40 năm thống nhất đất nước mà chúng tôi vẫn không hòa giải và xem ra... có lẽ chưa nói trước được. Cùng tuổi Hợi nhưng đại tướng tuổi Quý Hợi (1923) được chứng kiến dân tộc hòa giải chuyển mình rồi mới về cõi tiên, còn đại tướng tuổi Tân Hợi (1911) không chờ được đến ngày dân tộc hòa giải. Không may cho chúng tôi là gã khổng lồ hàng xóm đang trong cơn say bành trướng. Và cũng không may là chúng tôi cứ một mực đặt lợi ích giai cấp lên trên lợi ích dân tộc, khăng khăng đặt lợi ích quốc tế lên trên lợi ích quốc gia. Công bằng mà nói, chúng tôi không hiểu chủ nghĩa Marx-Lenin như ông, không giác ngộ lý tưởng cộng sản như ông, không kiên định lập trường giai cấp công nhân như ông. Ít ra thì Marx trong Das Kapital cũng dẫn chứng và phân tích tình hình kinh tế-chính trị-xã hội ở đất nước ông, Lenin thì quá hiểu biết đất nước và dân tộc Ba Lan; nhưng đối với cả hai vị, đất nước chúng tôi không tồn tại. Với chúng tôi, vì “nghiên cứu” theo kiểu “tầm chương trích cú” các loại tạppínlù nửa chữ tây nửa chữ nho do người Tầu vẽ theo ý họ nên tất cả những thứ đó trở thành một mớ bòng bòng rối tinh rối mù. Để dễ rót vào tai đồng bào, chúng tôi lại “tam sao thất bản” thêm... đôi ba lần nữa, rồi coi đó là một thứ “đạo” muôn năm bất diệt. Chúng tôi quyết “tử vì đạo” chỉ đơn giản vì “đạo” bảo vệ quyền lực và lợi ích của tập đoàn chúng tôi. Trong lúc hoảng hốt vì có nguy cơ mất “đạo”, chúng tôi đã sang Thành Đô xem xiếc và uống thuốc lú. Dân nước tôi có truyền thống yêu nước không kém dân nước ông. Hiềm một nỗi sau khi uống thuốc ở Thành Đô chúng tôi chỉ còn thấy nhòe nhoẹt 16 chữ vàng và 4 tốt mà thôi... Sứ thần Kulikov dù có sang Warszawa chấn chỉnh lập trường ông, nhưng vẫn cho ông cơ hội sang Moskva cự lại, mà còn được cự trước lãnh đạo các nước Hiệp ước Warszawa nữa. Kulikov đòi đưa cố vấn vào, ông cũng từ chối được. Xứ Á Đông này tàn nhẫn lắm. Ngày 02.05.2014 Tầu kéo giàn khoan vào biển nước chúng tôi, chúng tôi cúi mình xin sang Beijing cầu hòa mà họ nhất quyết không cấp visa. Hơn 20 lần chúng tôi “giao thiệp”, họ vẫn làm thinh. Rồi tự nhiên, tháng sau họ cho sứ thần Dương Khiết Trì sang tận Hà Nội dặn kỹ “không được đánh gía thấp quyết tâm và sức mạnh của Tầu, không được dùng tư liệu lịch sử làm dư luận thế giới hiểu sai, không được quốc tế hóa vấn đề biển Hoa Nam, không được phá vỡ quan hệ hữu nghị với Tầu xây dựng lại được 20 năm”. Họ cho chúng tôi uống thêm thuốc lú, lúc vỗ đít đi ra còn dọa “chỉ có song phương”.
Ước gì chúng tôi cũng có một Wojciech Jaruzelski để may ra tránh một Ukraina trên biển và tránh một Arab Spring trên đất liền. Ông sống khôn chết thiêng chắc sẽ gặp đại tướng của chúng tôi ở cõi tiên. Ông và đại tướng của chúng tôi đã từng là đồng chí. Ông đau khổ vì Borne Sulinowo. Đại tướng của chúng tôi đau khổ vì bauxite, rừng đầu nguồn, Vũng Áng và nhiều thứ khác nữa. Xin hai ông phù hộ chúng tôi giải liều thuốc lú Thành Đô! Thuốc giải của hai ông – Dân Tộc – nhất định trị được tận gốc căn bệnh mà không để lại di chứng!

Nhân giỗ đầu đại tướng tuổi Tân Hợi và cúng cơm 100 ngày đại tướng tuổi Qúy Hợi, tháng 08-10.2014.
HB
Một người Việt Nam đã không ít lần biết mùi lựu đạn cay trong các năm 1968, 1970, thiết quân luật 1981-1983, và chứng kiến Cộng hòa Nhân dân Ba Lan chuyển thành Cộng hòa Ba Lan; đã một đôi lần làm phiên dịch cho đại tướng tuổi Tân Hợi, cũng một đôi lần làm phiên dịch cho đại tướng tuổi Qúy Hợi.




[1] K. Rokossowski sinh năm 1896 tại Ba Lan, mất năm 1968 tại Liên Xô, cha là người Ba Lan, mẹ là người Nga. Ông là nguyên soái Liên Xô và cũng mang quân hàm nguyên soái Ba Lan. Trong các năm 1937-1940 ông bị Liên Xô thanh trừng vì Stalin nghi ông làm gián điệp cho nước Ba Lan tư sản. Năm 1956, sau sự kiện Poznań và sau khi Władysław Gomułka trở lại làm Bí thư thứ nhất Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan, do lo ngại ảnh hưởng của Liên Xô nên lãnh đạo Ba Lan đưa ông ra khỏi Bộ Chính trị, chức vụ bộ trưởng quốc phòng và phó thủ tướng. Rokossowski chua chát nói: “Mỉa mai thay công vụ, ở Nga tôi là người Ba Lan, còn ở Ba Lan tôi lại là người Nga!”
[2] Trong tiếng Ba Lan stan wojenny nghĩa là tình trạng chiến tranh. Lịch sử cận đại Ba Lan ghi lại 3 lần stan wojenny năm 1833, 1861, 1905 đều dưới thời Nga hoàng, nhằm đàn áp các cuộc khởi nghĩa của người Ba Lan; lần stan wojenny 1939-1945 thực chất là cuộc chiến tranh chống Đức quốc xã và Liên Xô; và, lần stan wojenny 1981-1983.
[3] Báo cáo này do đại tá phó cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Ba Lan, điệp viên CIA là Ryszard Kukliński (1930-2004) cung cấp. Ông cùng vợ và 2 con trai được CIA đưa ra khỏi Ba Lan ngay trước thiết quân luật. Năm 1993-1994 hai con ông lần lượt bị chết trong tai nạn nhưng không tìm ra thủ phạm. Ông R.K đã làm việc ở Việt Nam 1967-1968 trong phái đoàn Ba Lan thuộc Ủy ban Quốc tế kiểm soát và giám sát thực hiện Hiệp định Genève 1954.
[4] Borne Sulinowo là địa danh có diện tích khoảng 18 km2 nằm sâu trong lãnh thổ Ba Lan ngày nay ở phía tây-bắc. Những năm 1933-1939 Đức quốc xã xây dựng tại đây một căn cứ quân sự và một thị trấn quân sự dành cho trường Pháo binh Wehrmacht do A. Hitler đích thân khánh thành ngày 18.08.1938. Đầu năm 1945 Hồng quân chiếm và xây dựng thành căn cứ của tập đoàn quân phương Bắc thuộc quân đội Liên Xô, được bảo vệ rất chặt chẽ. Năm 1945 B.S. được bàn giao một cách hình thức cho Ba Lan, bản đồ ghi là “rừng”, nhưng trên thực tế bị tách khỏi lãnh thổ Ba Lan. Ngày 12.10.1992, lúc này là quân đội Nga với 15 nghìn quân thuộc sư đoàn cơ giới số 6 mới hoàn toàn rút khỏi B.S. Từ ngày này B.S. thực sự là lãnh thổ Ba Lan. Cách B.S. không xa, địa danh Brzeźnica là một trong những kho vũ khí nguyên tử của Liên Xô trên đất Ba Lan được bảo vệ hết sức nghiêm ngặt. Đến nay, 2014, trong các cánh rừng xung quanh vẫn còn nhiều chiến hào chìm nổi bảo vệ các giàn tên lửa SS-20 trước khi được rút đi. 
[5] Lúc W. Jaruzelski được 3 tháng tuổi, ngày 07.10.1923 gia đình ông vốn rất ngoan đạo, đã làm lễ rửa tội cho ông ở nhà thờ thiên chúa giáo.
[6] Người Ba Lan có truyền thống đặt danh dự ở vị trí cao nhất. Ba Lan có bộ Luật Danh dự – Kodeks Honorowy – gồm 27 chương và 404 điều với những quy định rất chi tiết, áp dụng một cách tự nhiên trong giới quý tộc, quân nhân và trí thức. Người bị tước danh dự theo bộ luật này là người đã chết trong con mắt những người khác. Trên thanh kiếm của sỹ quan Ba Lan có hai từ “Honor i Ojczyzna” (Danh dự và Tổ quốc), quân nhân Ba Lan đưa tay phải lên ngang vành mũ chào với ngón giữa và ngón trỏ duỗi thẳng mang ý nghĩa Danh dự và Tổ quốc còn các ngón khác nắm chặt vào lòng bàn tay. Danh dự luôn luôn đi trước Tổ quốc vì người Ba Lan tin rằng chỉ những người trọng Danh dự mới biết yêu Tổ quốc.
[7] Ngày 13.12.2002 tại Kopenhagen, Ba Lan hoàn thành đàm phán gia nhập Liên minh châu Âu. Liên minh châu Âu có trụ sở ở Bruxelles.
[8] Cũng như hầu hết người Ba Lan vốn là tín đồ thiên chúa giáo, gia đình Jaruzelski rất ngoan đạo. Hầu hết những người tham gia công đoàn Đoàn Kết cũng rất ngoan đạo. Những năm 1980´s, không ít cán bộ các cơ quan Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Ba Lan khi nói chuyện riêng bên ngoài hành lang với cán bộ đại sứ quán các nước xã hội chủ nghĩa thường nói đùa – với một phần sự thật tế nhị bên trong – rằng “mỗi nước chúng ta” nên có một công đoàn Đoàn Kết.
[9] The Soviet model does not respect the man, oppresses him spiritually and politically.