28 décembre 2014

NGUYÊN NHÂN GỐC CỦA NHIỀU TỆ NẠN



Nguyễn Đình Cống


Nguyễn Đình Cống
Nguyễn Đình Cống: "Cách mạng tháng Tám do Việt Minh ( VM) thực hiện. Mục tiêu của VM là đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập, lật đổ phong kiến. Thế nhưng một số người nghiên cứu lịch sử cho rằng thực chất của CM Tháng Tám chỉ là nội chiến, cướp chính quyền vì vào thời gian đó vua Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim đã tuyên bố Việt nam độc lập, xóa bỏ hiệp ước ký với Pháp, thoát khỏi sự đô hộ của Pháp, hệ thống cai trị của Pháp đã bị Nhật tiêu diệt và đến lượt Nhật đã đầu hàng Đồng minh. Việc chúng ta giành chiến thắng trong chiến tranh chủ yếu không phải nhờ áp dụng các lý thuyết của CNML như đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản. Mà hễ cứ mỗi lần vận dụng CNML vào đời sống như CCRĐ, hợp tác hóa, cải tạo tư sản, kinh tế quốc doanh, đàn áp xu hướng bất đồng quan điểm là mỗi lần tạo nên tai họa. Chỉ những khi làm ngược lại với CNML như khoán hộ trong nông nghiệp, như mở rộng kinh tế thị trường, như không công nhận có giai cấp thù địch thì mới phát triển được phần nào."


---------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Xã hội VN hiện nay có quá nhiều tệ nạn  trầm trọng . Để phát triển đất nước  thì một trong những nhiệm vụ quan trọng là tìm cho đúng nguyên nhân gốc của tệ nạn để khắc phục.

Trước tiên xin nêu vài hiểu biết về phạm trù nguyên nhân – kết quả : Trong một quá trình (QT) nguyên nhân ( NN )  có trước và tạo ra kết  quả (KQ) . Xét các QT liên tiếp nhau, KQ của QT trước là NN của QT sau.  Có KQ Ao  là do NN  A1, có  A1 là do A2, có A2 là do A3… Cứ truy  như vậy trở về trước sẽ tìm ra một dãy các  Ai kế tiếp và nếu cứ truy mãi thì đến lúc bí và phải công nhận là “ tại Trời sinh ra thế” ( Ngẫm hay muôn sự tại Trời- Truyện Kiều ). Chỉ có thể truy đến một nguyên nhân Ar nào đó thấy là vừa đủ  để xem xét thì tạm dừng lại.  Như vậy A1 là NN trực tiếp còn Ar  được xem là NN gốc . Một NN có thể gây ra nhiều KQ khác nhau và một KQ cũng có thể do nhiều NN đồng thời gây nên.

Tìm NN  là để biết ,  quan trọng hơn là để xử lý. Với KQ  tốt thì tìm cách tăng cường , với KQ xấu  thì tìm cách hạn chế hoặc xóa bỏ.  Nguyên nhân trực tiếp, cụ thể thì dễ tìm, còn NN gốc thì khó tìm hơn vì nó thường ở dạng ẩn dấu. 

Về  các tệ nạn  của xã hội VN hiện nay  đã có một số người nghiên cứu tìm NN và đưa ra  kết luận là : “có không ít cán bộ, đảng viên các cấp, các ngành thoái hóa , biến chất”. Tôi nghĩ, đó  chỉ mới là NN trực tiếp chứ chưa phải là NN gốc . Biết NN trực tiếp là cần nhưng chưa đủ, vì biết là để sửa chữa, nhưng khi mới biết NN trực tiếp thì chỉ mới chữa  ở ngọn chứ không chữa được từ gốc. Mà như vậy thì chữa được chỗ này nó sẽ phát ra ở chỗ khác, mạnh hơn, rộng hơn. Phải tìm ra NN  gốc thì mới hy vọng chữa được cơ bản.

Phan Chu Trinh cho rằng sự hưng hay suy của xã hội vấn đề cơ bản là ở dân trí, dân khí, vì thế  ông đã hết lòng cho công cuộc “ Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Gần đây trang Bauxite nêu lại phương châm ấy, đó là việc làm rất có ích.  Trong tác phẩm “ Tổ quốc ăn năn” Nguyễn Gia Kiểng  tập trung phân tích vào “ cơ sở văn hóa” của dân tộc, cho rằng sự thịnh hay suy của đất nước gắn liền với nó. Tôi hoàn toàn tán thành các quan điểm trên đây , chỉ xin bổ sung và giải trình thêm vài ý kiến.

Theo  Duy thức luận của Phật giáo thì một nguyên nhân  chưa thể tạo ra kết quả mà còn phải kết hợp với “duyên”. Thí dụ : 1- Để có bông lúa thì  nhân là gieo hạt thóc giống  ( gieo cây nào gặt cây ấy ) còn  duyên là điều kiện thuận lợi cho cây lúa phát triển, trổ bông, kết hạt. 2- Để xẩy ra đám cháy thì ngoài  nhân là nguồn làm phát sinh ra lửa, còn phải có vật liệu bắt lửa để cháy, là duyên. 3- Để xẩy ra một vụ trộm  thì  nhân  kẻ trộm , còn  duyên là sự sơ suất của người có tài sản. Theo một cách giải thích khác thì không phải chỉ có một  mà ít nhất có hai yếu tố, kết hợp với nhau, một trong số đó là nhân còn cái kia là duyên. Nhân và duyên có thể đổi chỗ cho nhau. Trong thí dụ trên có thể xem nhân là vật cháy được còn duyên là ngọn lửa, nhân là sự sơ suất và duyên là tên trộm.  Nhân và duyên đều có trực tiếp và  gốc rễ.

Về các tệ nạn  của xã hội VN , tôi đồng ý với nhiều nhà nghiên cứu và phân tich, NN gốc là từ nền văn hóa còn mang nặng tàn dư phong kiến, nô lệ ( dân trí thấp, dân khí yếu, tư lợi, tham lam, dối trá,  đểu cáng…). Tôi xin bổ sung  một yếu tố khác, hoặc theo duy thức luận là nêu ra cái “ duyên”. Đó là những phần độc hại của chủ nghĩa Mác-Lênin ( CNML ). Tôi không qui kết toàn bộ CNML là độc hại mà chỉ nêu những phần độc hại trong ấy. Đó là đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản, là công hữu hóa, tập thể hóa tư liệu sản xuất, là tuyên truyền sự tốt đẹp của CNCS. Tôi cho rằng việc nêu NN của các tệ nạn tại VN là do một số không ít cán bộ thoái  hóa biến chất  là không sai nhưng  chỉ  nói ra chuyện mọi người đã biết rõ, thể hiện sự nhận thức nông cạn hoặc sự cố tình bưng bít NN cơ bản. Thử hỏi, với một tổ chức chặt chẽ như ĐCSVN , tại  cuộc bầu cử ở bất kỳ cấp nào, vào bất kỳ lúc nào cũng đều nêu cao khẩu hiệu sáng suốt lựa chọn người xứng đáng, với một thể chế chặt chẽ lựa chọn công chức nhà nước  với tiêu chuẩn cao, rõ ràng và thi tuyển hẳn hoi   thế thì cái bọn thoái hóa biến chất ở đâu chui ra, lọt vào từ ngõ ngách nào,  mà sao lại nhiều thế và tại sao thấy rõ chúng nó rồi mà về cơ bản chẳng làm gì được, không những thế càng chống thì càng phát triển.  À, thì ra có cơ chế sinh ra bọn ấy, bảo vệ cho bọn ấy, đó là sự độc quyền của nền chuyên chính vô sản mà chủ yếu là độc quyền của một số người giữ cương vị cao trong đảng nấp dưới chiêu bài tập trung dân chủ, đó là sự toàn trị của ĐCS, đó là việc bầu cử và thi tuyển chỉ là hình thức còn thực chất được điều khiển bởi thế lực chính trị và đồng tiền.

Những tệ nạn  hiện nay, dù ở lĩnh vực nào, cấp độ nào thì phần lớn  có thể quy về phạm trù đạo đức. Phạm trù này  dựa vào 2 trụ cột chính là lực lượng quản lý  xã hội và  truyền thống văn hóa , trong đó lực lượng quản lý đóng vai trò rất quan trọng vì nắm quyền lực. Tôi biết  một câu  như sau :           “ Muốn biết đạo đức thật sự của một người hãy cho họ quyền lực và xem họ sử dụng quyền đó như thế nào”. Suy rộng ra : “ Muốn biết đạo đức của một đảng chính trị hãy xem cách họ hành động lúc đã nắm chắc chính quyền, cách họ sử dụng sức mạnh của quyền lực như thế nào” ( chứ không phải nhìn vào lúc họ  đang cần vận động người khác ủng hộ để giành hoặc cướp chính quyền ).

Theo Duy thức luận có thể biểu diễn :  Đạo đức XH  =  KQ [ Quản lý xã hội (QL) + nền văn hóa (VH) ]. Ở đây dùng dấu = , dấu +  không phải là phép toán số học mà gần giống như    phép hội” trong lôgic mờ.  Trong phép hội lôgic thì hai thành tố là độc lập, nhưng trong xã hội  thì QL và VH không hoàn toàn độc lập mà có ảnh hưởng qua lại . Một thí dụ là ĐCSVN  đã có nghị quyết  về xây dựng và phát triển văn hóa (  NQ 9 khóa IX. Tôi chỉ nói là có NQ về văn hóa chứ chưa bàn đến những chỗ đúng-sai, hay-dở của NQ đó ).

Tìm hiểu về văn hóa của người VN thấy rằng chúng ta có nhiều phẩm chất tốt đẹp và có không ít tính cách xấu xa. Vì đang bàn về NN tệ nạn nên tôi xin phép không kể ra các phẩm chất tốt  mà nhiều người đã biết rất rõ, chỉ xin mạo muội kể ra một số, chưa đầy đủ, các tính cách xấu. Chúng cũng đã được nhiều người nói đến. Đó là thói tham lam ích mình hại người, là thói nặng về tranh giành mà nhẹ về nhường nhịn, là thói dối trá, lừa lọc, là tâm lý nô lệ,  chấp nhận chịu hèn để giữ thân, gió chiều nào che chiều ấy,  là v.v.… Chỉ xin tạm dừng lại ở chỗ kể ra một vài thói xấu, còn chưa truy tiếp  NN nào tạo ra chúng. Những thói xấu này không phải bao giờ cũng gây ra tệ nạn. Trong lịch sử mấy ngàn năm có thể kể ra nhiều giai đoạn thịnh trị, đạo đức được đề cao, tình người được tôn trọng, những thói xấu bị co lại,  bị dìm xuống , chúng chỉ gây ra tệ nạn dưới những thời phong kiến suy đồi và trong thời gian gần đây khi  gặp môi trường thuận lợi, kết  được với nguyên nhân khác phù hợp    ( gặp được duyên ).

Về  quản lý xã hội, có lẽ chỉ có một số nước, trong đó có VN mới có khái niệm đảng lãnh đạo, còn phần lớn các nước chỉ có  khái niệm đảng cầm quyền, đảng này lo việc chủ yếu là thành lập chính phủ, còn việc quản lý, điều hành các hoạt động xã hội là của chính quyền. Mà quản lý là do kết hợp hai nhân tố cơ bản là con người ( quan chức, cán bộ ) và thể chế chính trị.

Về thể chế, trong bài “Đuổi hổ rước sói” tôi đã phân tích việc một số người yêu nước  vì đấu tranh cho cho nền độc lập mà đã rước nhầm thần sói về để thờ, đó là chủ nghĩa Mác Lênin ( CNML). Trong bài đó tôi cũng đã phân tích việc chưa thể dùng CNML trong quản lý xã hội . Trong CNML có những mặt tốt cho cách mạng vô sản nhưng  vì đang phân tích NN của tệ nạn nên tôi không trình bày những mặt tốt đó mà chỉ xin phân tích một số tác hại của nó ( đã nêu ở đoạn trên ) trong vai trò  nhân hoặc duyên, trong việc kết hợp và làm trầm trọng thêm các tật xấu của con người. Sự gặp nhau giữa hai yếu tố vừa kể thường không dừng lại ở mức kết hợp mà nhiều khi trở thành cộng hưởng, làm cho tác hại tăng lên rất nhiều.  Có thể kể ra hàng ngàn, hàng vạn dẫn chứng về sự kết hợp đó ở mọi cấp độ, chỉ xin nêu ra vài chuyện.

 Sai lầm của cải cách ruộng đất là do kết hợp sự tàn bạo, sự vô nhân đạo của đấu tranh giai cấp với thói xấu tham lam của bần cố nông, sự lưu manh của những kẻ cơ hội. Sự cải tạo tư sản gây nên suy sụp một bộ phận của nền kinh tế là do kết hợp lý thuyết đấu tranh giai cấp với sự ngu dốt của người này và sự thất thế của người kia. Sai lầm của hợp tác hóa làm kiệt quệ nền nông nghiệp là do sự áp đặt việc tập thể hóa sản xuất kết hợp với thói xấu quen nô lệ của nông dân. Tệ nạn dối trá tràn lan là sự kết hợp của nhu cầu tuyên truyền về sự tốt đẹp chưa có với tính xấu lươn lẹo của người dân. Tệ nạn đàn áp  ý kiến trái chiều, ngăn cấm  tự do ngôn luận là do kết hợp sự  chuyên chính với thói độc đoán của phong kiến và thói  xấu hèn nhát, lo sợ của số đông. Tệ nạn cán bộ, quan chức kém năng lực, gây ra nhiều sai phạm trong công việc là do kết hợp độc quyền chuyên chính vô sản với thói xấu muốn làm quan để hưởng vinh hoa phú quý, để đục khoét công quỹ , để vơ vét , để ra oai với người yếu thế.
 



Chủ nghĩa Mác được sinh ra  tại các nước tư bản phát triển nhưng tại nhiều nước Âu Mỹ có dân trí cao, người ta không chấp nhận đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản nên nó chỉ tồn tại như một học thuyết. Tại Liên xô và các nước Đông Âu cũng nhờ dân trí cao mà người ta đã sớm nhận ra và từ bỏ CNML. Trung quốc, về hình thức vẫn giữ CNML nhưng thực chất chỉ giữ lại chuyên chính của ĐCS còn vứt bỏ các thứ khác, và như vậy đã phạm vào tội dối trá, lừa bịp. Tại Cuba, tuy cũng du nhập CNML nhưng nhờ dân trí cao nên các độc hại không có cái kết hợp để tạo nên tệ nạn lớn. Tại VN, CNML được tiếp nhận và phổ biến tương đối nhanh, ngoài việc hy vọng dựa vào nó để đấu tranh giành độc  còn là vì dân trí thấp, không thấy được mầm mống độc hại trong đó. Đến khi ĐCS  thực thi sự toàn trị thì các mầm mống độc hại phát tác, nó kết hợp, nó cộng hưởng với những thói hư tật xấu vốn có sẵn và nằm im trong văn hóa dân tộc để gây ra nhiều tệ nạn, càng ngày càng trầm trọng. Một số người nhầm lẫn, cho rằng dù sao dân tộc VN cũng nhờ CNML mà làm CM thành công, mà chiến thắng trong các cuộc chiến tranh. Sự nhầm lẫn ấy là kết quả của quá trình tuyên truyền một chiều, phiến diện . Trong bài “ Tản mạn về lòng yêu nước thời cộng sản” tôi có phân tich là CNML vào được VN là nhờ bám vào lòng yêu nướ, nhưng rồi lại dùng người yêu nước này chống lại người khác cũng yêu nước.

 Cách mạng tháng Tám do Việt Minh ( VM) thực hiện. Mục tiêu của VM là đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập, lật đổ phong kiến. Thế nhưng một số người nghiên cứu lịch sử cho rằng thực chất của CM Tháng Tám chỉ là nội chiến, cướp chính quyền vì vào thời gian đó vua Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim đã tuyên bố Việt nam độc lập, xóa bỏ hiệp ước ký với Pháp, thoát khỏi sự đô hộ của Pháp, hệ thống cai trị của Pháp đã bị Nhật tiêu diệt và đến lượt Nhật đã đầu hàng Đồng minh. Việc chúng ta giành chiến thắng trong chiến tranh chủ yếu không phải nhờ áp dụng các lý thuyết của CNML như đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản. Mà hễ cứ mỗi lần vận dụng CNML vào đời sống như CCRĐ, hợp tác hóa, cải tạo tư sản, kinh tế quốc doanh, đàn áp xu hướng bất đồng quan điểm là mỗi lần tạo nên tai họa. Chỉ những khi làm ngược lại với CNML như khoán hộ trong nông nghiệp, như mở rộng kinh tế thị trường, như không công nhận có giai cấp thù địch thì mới phát triển được phần nào.

Muốn khắc phục, muốn dẹp bỏ tệ nạn thì hay nhất, tốt nhất là xóa được, cải thiện được những tật xấu trong nền văn hóa và từ bỏ được CNML để xây dựng một thể chế thật sự dân chủ, trong sạch. Xóa bỏ, cải thiện tật xấu văn hóa là cần nhưng đó là việc làm lâu dài, không thể một sớm một chiều. Từ bỏ CNML là việc có thể làm được nhanh nhưng đòi hỏi phải có sự thông minh và dũng cảm ( Liên xô và các nước Đông Âu chỉ tiến hành trong hòa bình, khoảng 1 năm là xong mọi việc, có nước như Rumani và thống nhất nước Đức chỉ diễn ra trong vài tuần ). Sẽ là rất tốt khi tự trong các cán bộ cấp cao của ĐCSVN có được một số người giác ngộ quyền lợi dân tộc, thấy  được tác hại của CNML, dũng cảm vận động từ bỏ nó kết hợp đổi tên đảng ( vì tên ĐCS phải gắn chặt với CNML ). Làm được như vậy sẽ bảo vệ được tổ chức đảng và cứu được dân tộc khỏi rơi vào cảnh tụt hậu triền miên. Đối với đại đa số nhân dân, chính quyền  nên để cho các tổ chức dân sự hoặc cùng các tố chức đó dàn dựng các buổi thảo luận, tranh luận về CNML, về cái được cái mất của CM  và chuyên chính vô sản. Làm được như thế sẽ góp phần nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí, xây dựng nền văn hóa  theo tinh thần Nghị quyết 9 của ĐCSVN về xây dựng và phát triển văn hóa con người VN đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.